Theo Thông tư số 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định danh mục bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội và hướng dẫn chẩn đoán, giám định bệnh nghề nghiệp, bệnh nhiễm độc thủy ngân nghề nghiệp là một trong 34 bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội.
Bệnh nhiễm độc thủy ngân nghề nghiệp là bệnh nhiễm độc do tiếp xúc với thủy ngân và hợp chất thủy ngân trong quá trình lao động. Những nghề, công việc thường gặp và nguồn tiếp xúc thủy ngân và hợp chất thủy ngân là công nghiệp dệt, thuộc da, hóa chất và dược phẩm có sử dụng thủy ngân; sản xuất, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật; xử lý quặng, vàng bạc; khai thác, tách chiết thủy ngân; chế tạo, bảo dưỡng và tiêu hủy các dụng cụ, thiết bị, vật liệu có chứa thủy ngân như amangan, ắc quy, chấn lưu áp kế, nhiệt kế, phổ kế, bóng X- quang; đèn hơi thủy ngân, đèn điện tử nung sáng, gương, phích bình thủy.
Theo các chuyên gia bệnh nghề nghiệp, một người nhiễm độc cấp tính khi có xét nghiệm thủy ngân nước tiểu lớn hơn 500 microgam/g hoặc thủy ngân máu lớn hơn 18 microgam/dL. Người nhiễm độc mãn tính có các tiêu chí: tiếp xúc với thủy ngân trong quá trình lao động, nồng độ thường xuyên vượt quá giới hạn tiếp xúc ca làm việc cho phép theo quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành. Xét nghiệm có kết quả thủy ngân niệu lớn hơn 50 microgam/g hoặc thủy ngân máu lớn hơn 15 microgam/dL. Về thời gian tiếp xúc tối thiểu, đối với nhiễm độc cấp tính là 2 giờ, đối với nhiễm độc mạn tính là 02 tháng. Nhiễm độc mạn tính thời gian tổn thương da 15 ngày, tổn thương tiêu hóa, răng miệng, viêm mũi là 01 tháng; thời gian gây tổn thương thần kinh, thận là 01 năm.
Trong nhiễm độc cấp tính, trên lâm sàng người bệnh có triệu chứng ho, khó thở, đau ngực, viêm phế quản, viêm tiểu phế quản, viêm phổi, phù phổi do hóa chất; triệu chứng tiêu hóa viêm miệng và lợi, buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy, da bị ban, dát, viêm da, viêm kết mạc mắt; tổn thương ống thận, suy thận.
Đối với người nhiễm độc thủy ngân mạn tính có triệu chứng buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy, viền thủy ngân đen dọc theo bờ nướu lợi, răng lung lay, rụng, viêm dạ dày ruột. Bệnh nhân hắt hơi, xổ mũi, chảy máu cam, rối loạn khứu giác. Triệu chứng tâm thần kinh bệnh nhân run mi mắt, run da mặt, ngón tay, bàn tay khi nghỉ; rối loạn thăng bằng tiểu não; bệnh nhân kích thích, dễ cáu giận, suy sụp tinh thần; tâm thần vận động chậm chạp, thiếu chính xác; đối với hệ tiết niệu bệnh nhân bị viêm cầu thận, ống thận, hội chứng thận hư; da có ban, dát, viêm da. Trong trường hợp nhiễm độc alkyl-thủy ngân gây giảm thị lực, thay đổi màu mắt, thu hẹp thị trường, giảm sức nghe. Người mẹ mang thai tiếp xúc với thủy ngân trong 03 tháng đầu trẻ sinh ra có thể bị chậm phát triển trí tuệ và vận động.
Theo các chuyên gia ung bướu, mọi người đều có thể tiếp xúc và tiêu thụ thủy ngân do nó xuất hiện tự nhiên và dưới nhiều dạng khác nhau trong môi trường; thủy ngân sẽ gây hại nếu tiếp xúc kéo dài hoặc hấp thu lượng lớn. Một khi tiếp xúc với cơ thể, thủy ngân hấp thụ gần như hoàn toàn vào máu và phân phối tới mọi mô. Dấu hiệu đầu tiên của nhiễm độc thủy ngân là hiện tượng tê và đau nhói ở môi, ngón tay, ngón chân gọi là chứng dị cảm. Các triệu chứng xảy ra khi một người tiếp xúc với nồng độ thủy ngân trong không khí trên 50 microgam/m3. Hít thủy ngân nguyên tố, nuốt thủy ngân vô cơ gây ngộ độc cấp; còn tiếp xúc với dạng hữu cơ như ăn phải cá chứa thủy ngân thường gây ngộ độc mạn tính.
Trên thực tế, ngộ độc do nuốt phải thủy ngân vô cơ như pin, gây phỏng niêm mạc, đau bụng, buồn nôn, nôn ra máu. Sau vài ngày gây hoại tử ống thận cấp, suy thận, rối loạn nước và điện giải có thể tử vong. Đối với ăn thức ăn chứa thủy ngân vô cơ như cá biển gây ngộ độc mạn, biểu hiện thần kinh dị cảm, suy nhược, giảm thính giác, thu hẹp thị trường, run cơ… Đặc biệt mẹ mang thai ăn thường xuyên cá biển chứa nhiều thủy ngân có thể gây sẩy thai, khuyết tật thần kinh, bại não, biến dạng chi.
Để phòng ngừa nhiễm độc thủy ngân cần giảm thiểu, loại bỏ các sản phẩm có sử dụng thủy ngân như bóng đèn, pin, nhiệt kế; sử dụng năng lượng sạch như gió, mặt trời thay thế cho than đá; kiểm soát an toàn thực phẩm. Thủy ngân có nguy cơ nhiễm độc cao nhất lúc bị làm nóng, nó bốc hơi gây nhiễm cho người hít phải. Nếu nhiệt kế thủy ngân bị vỡ cần hốt gom lại, gói kín, tránh các tình huống gây sinh nhiệt và bỏ theo phân loại rác thải độc hại.
Bài: Nguyễn Thị Thanh Hoa